Làm tiết độ sứ Nam_Hán_Cao_Tổ

Theo ghi chép, trên cương vị tiết độ sứ, Lưu Nham thường xuyên mời các sĩ nhân chạy loạn từ Trung Nguyên đến mạc phủ, thường bổ nhiệm họ làm thứ sử, đến nỗi thứ sử các châu đều không phải là võ quan.[12]

Cũng trong năm 911, Lô Diên Xương bị thuộc hạ là Lê Cầu (黎球) ám sát, Lê Cầu sau đó qua đời và người kế nhiệm là Lý Ngạn Đồ (李彥圖). Do Lê Cầu muốn giết mưu chủ của Lô Quang Trù là Đàm Toàn Bá, Đàm Toàn Bá xưng bệnh xin được cáo hưu. Lưu Nghiễm hay tin thì liền phát binh công Thiều châu, kết quả tái chiếm được châu này; Thiều châu thứ sử Liệu Sảng (廖爽) chạy đến Sở. Trong khi đó, ông cũng phái quân tiến công Dung châu. Diêu Ngạn Chương nhận định rằng không thể trụ lại được (mặc dù quân cứu viện của Sở do Hứa Đức Huân thống lĩnh đang tiến đến), do đó Diêu Ngạn Chương quyết định đưa sĩ dân Dung châu về Sở, Lưu Ẩn đoạt được Dung châu và Cao châu. Hay tin hai chư hầu xảy ra chiến tranh, Hậu Lương Thái Tổ sai Hữu tán kị thường thị Vi Tiển (韋戩) đi hòa giải giữa Mã Ân và Lưu Nham.[12] Đáp lại, Lưu Nham nộp cống một lượng lớn vàng, bạc, sừng tê giác, ngà voi, đủ loại đồ trang sức và gia vị khác, cho Hậu Lương Thái Tổ.[5]

Vào cuối năm 912, Hậu Lương Thái Tổ bị con là Dĩnh vương Chu Hữu Khuê ám sát.[12] Vào đầu năm 913, Chu Hữu Khuê ban chức kiểm hiệu thái phó cho Lưu Nham.[5] Sau đó, hoàng vị Hậu Lương lại về tay Chu Hữu Trinh (đổi tên thành Chu Trấn)[12] Chu Trấn bổ nhiệm Lưu Nham làm tiết độ sứ của Thanh Hải quân và Kiến Vũ quân[chú 12], phong tước Nam Bình vương.[5]

Cũng vào năm 913, Lưu Nham muốn thiết lập liên minh hôn nhân với Mã Ân, xin cưới con gái của Mã Ân, Mã Ân chấp thuận.[12] Đến năm 915, Lưu Nham cử đoàn đến kinh đô Trường Sa của Sở để đón dâu, Mã Ân khiển con trai là Vĩnh Thuận tiết độ sứ Mã Tồn (馬存) hộ tống Mã thị đến Thanh Hải quân. Trong khi đó, Thanh Hải-Kiến Vũ tiết độ sứ kiêm Trung thư lệnh Lưu Nham không hài lòng trước việc chỉ được phong tước Nam Bình vương, trong khi Tiền Lưu được phong làm Ngô Việt quốc vương. Do vậy, Lưu Nham dâng biểu cầu được phong tước Nam Việt vương, thăng làm đô thống. Khi Chu Trần từ chối, Lưu Nham nói với quan lại dưới quyền: Nay Trung Quốc phân tranh, ai là Thiên tử?. Sao ta có thể [khiển sứ] leo trèo, đi thuyền hàng vạn lý để tôn thờ ngụy đình?. Sau đó, Lưu Nham chấm dứt việc gửi cống phẩm và sứ giả đến triều đình Hậu Lương.[13]

Vào mùa thu năm 917, Lưu Nham tức hoàng đế vị ở Phiêng Ngung, đặt quốc hiệu là "Đại Việt", đại xá, cải nguyên Càn Hanh. Ông truy phong tổ phụ Lưu An Nhân (劉安仁), cha Lưu Khiêm, và huynh Lưu Ẩn là hoàng đế.[2] Bổ nhiệm sứ giả Hậu Lương Triệu Quang Duệ làm Binh bộ thượng thư, tiết độ phó sứ; bổ nhiệm Tiết độ phán quan Lý Ân Hành làm Lễ bộ thị lang; bổ nhiệm Tiết độ phó sứ Dương Đỗng Tiềm làm Binh bộ thị lang; cả ba đều là Đồng bình chương sự.[2]

Liên quan